Nuôi dưỡng trái tim nồng ấm
10/04/2013 106 Lượt xem

Nuôi dưỡng trái tim nồng ấm

Nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.

Đức Dalai Lama thăm hỏi một vị trưởng lão

Ravangla, Sikkim, Ấn Độ, ngày 25 tháng 3 năm 2013 – Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được chính phủ Sikkim thỉnh mời tới Ravangla để gia trì tôn tượng Tathagata Tsal bằng đồng cao 128 feet, một trong những tượng Phật lớn nhất trên thế giới. Ngài được cung đón theo đúng nghi thức truyền thống để cử hành đại lễ gia trì an vị tôn tượng mới.

Tại đây, ngài đã thực hiện nghi thức cắt băng khánh thành và mở các cánh cửa lên khán đài; tòa ngồi được sơn khắc rất công phu hình các bản tôn phẫn nộ ở các bức tường bên trong và những hình ảnh cuộc đời Đức Phật ở các bức tường bên ngoài. Ngài đã xem xét kỷ các hình ảnh một cách thán phục trước khi an tọa trên tòa. Buổi đại lễ gia trì có sự hiện diện của Goshir Gyaltsab Rinpoche, Thủ tướng Pawan Chamling và Tổng thống BP Singh của Sikkim cùng hàng chục ngàn các Phật tử tín tâm. Rất nhiều lời cầu nguyện đã được tán tụng, gạo cát tường thành tựu được rắc phía trước tôn tượng và nghi thức nhiễu quanh tôn tượng được thực hiện sau đó.

Trong lời phát biểu, thủ tướng Pawan Chamling đặc biệt tri ân lên Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đặt tên cho dự án tôn tượng Tathagata Tsal và dành thời gian tới đại lễ gia trì ngày hôm nay. Ông nhấn mạnh rằng người dân Sikkim từ lâu đã sống trong sự hòa hợp và nhiều tín ngưỡng được tôn trọng nơi đây trong một tiểu bang với 328 chùa Phật giáo, 318 thánh đường Hindu, 74 nhà thờ Thiên chúa, 7 nhà thờ Hồi giáo và 2 thánh đường đạo Jain. Ông mong nguyện rằng quần thể tôn tượng Phật sẽ thu hút khách hành hương từ khắp nhiều nơi. Ông nói rằng chính phủ Sikkim hoạch định chính sách dựa trên các giá trị Phật giáo, cam kết hỗ trợ các tôn giáo khác nhau và thúc đẩy các giá trị tích cực nơi người dân. Ông nhắc tới việc, nương theo lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một thư viện và trung tâm nghiên cứu sẽ được thành lập trong quần thể của tôn tượng.

Tổng thống Sikkim, H.E. BP Singh, chia sẻ về ân phước của Đức Đạt Lai Lạt Ma giành cho Sikkim và người dân nơi đây. Ông đã so sánh Thủ tướng với vị Hoàng đế Ấn Độ Ashoka vĩ đại, ngài đã kiến lập vô số các thánh tích, thiết lập Phật giáo trên khắp Ấn Độ và quản lý đất nước dựa trên các giá trị Phật giáo. Ông kêu gọi công chúng hãy khắc ghi lời dạy của Đức Phật về bất bạo động và lòng từ bi.

Tiếp đến Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chúc mừng và dạy rằng:

“Tôi đã đến để gia trì cho tôn tượng rất đặc biệt này; chúng ta đã cử hành các nghi thức Hộ pháp Phổ ba Kim cương (Vajrakilaya), bởi vì thánh địa có nhân duyên về mặt lịch sử với Bản tôn thiền định này. Bản thân nơi chốn này rất thanh bình, rộng mở và an bình, và tôn tượng làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của cảnh quan nơi đây, do đó tôi mong nguyện tất cả sẽ truyền cảm hứng, mang lại sự chuyển hóa nội tâm cho những người hành hương tới đây”.

Ngài chia sẻ rằng ngài đã biết đến thủ tướng trong nhiều năm và rất ngưỡng mộ các dự án xây dựng di sản Phật giáo tại Sikkim, trước đây là tôn tượng đạo sư Liên Hoa Sinh (Guru Padmasambhava) trên đồi Samdruptse, bây giờ là tôn tượng Đức Phật và cả tôn tượng Bồ tát Quán Âm sắp hoàn thành.

“Tôi cầu nguyện rằng tất cả những tâm nguyện cao quý của quý ngài sẽ nhanh chóng thành tựu viên mãn không chút trở ngại”.

Nhắc lại các nhân duyên của mình với Sikkim, ngài dạy rằng ngài đã đến đầu tiên khi trên đường tới đại lễ kỷ niệm Đức Phật Jayanti tại Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1956, khi đó ngài đã đi qua Nathula và thủ phủ Gangtok. Ngài đã trở lại Sikkim nhiều lần từ năm 1959 tới nay.

Cũng như tôn tượng đạo sư Liên Hoa Sinh, tôn tượng này sẽ ban sự gia trì to lớn trong nhiều năm tới, nhưng tôn tượng không thể giảng pháp được. Điều chúng ta cần là những hướng đạo để rèn luyện tâm thức. Hai mươi năm trước, khi đại Bảo Tháp Nhật Bản Hòa bình Thế giới được an vị tại Rajgir với sự hiện diện của Chủ tịch Ấn độ, ngài đã chỉ ra rằng bảo tháp thực sự cần phải được kiến lập trong tâm chúng ta. Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng giáo pháp của Đức Phật bao gồm vô số phương pháp để rèn luyện tâm thức, theo khuynh hướng, căn cơ mỗi chúng sinh.

Giáo pháp của đức Phật được kết tập trong hơn 300 tập Kangyur và Tengyur kinh điển Phật giáo, mà chúng ta cần tu học. Kinh sách không chỉ là đối tượng để kính ngưỡng, thờ phụng mà chúng ta cần mở ra và đọc. Chúng ta cần phải biết tâm thức vận hành như thế nào, những cảm xúc vận hành ra sao. Cầu nguyện là chưa đủ, chúng ta phải trưởng dưỡng thân tâm. Văn học Phật giáo rất phong phú kiến thức về tâm thức và ngày nay đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học hiện đại, những người nhìn thấy những phương pháp này như là cội nguồn đích thực của sự an bình nội tâm.

Vào buổi chiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại khán đài chia sẻ về bộ luận “37 phẩm Bồ tát hạnh” của đại học giả Ngulchu Thogme Sangpo.  Ngài luận giải rằng Pháp có thể được hiểu là cứu vớt chúng ta khỏi khổ đau. Pháp là một thuật ngữ có thể được áp dụng cho tất cả các truyền thống tôn giáo trên thế giới. Chúng ta có thể đặt câu hỏi Pháp bảo vệ chúng ta khỏi đau khổ bằng cách nào. Pháp có năng lực như vậy bởi giúp rèn luyện chúng ta điều phục được các cảm xúc tiêu cực đang làm phát sinh khổ đau. Pháp cho phép ta chuyển hóa thân tâm tự do khỏi khổ đau.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chia sẻ về sự khác biệt giữa các tôn giáo hữu thần, có xu hướng đặt niềm tin vào một đấng sáng tạo và những truyền thống tôn giáo vô thần không tin tưởng vào đấng sáng tạo, mà thay vào đó dựa trên nền tảng luật nhân quả. Phật giáo dạy rằng nếu bạn làm điều thiện bạn có khuynh hướng đạt được quả thiện và nếu bạn làm điều ác, bạn tạo ra các nhân của khổ đau và bất an. Từ quan điểm này, những trải nghiệm khổ đau và an lạc đều phụ thuộc vào mỗi chúng ta. Ngày nay, tất cả các chính truyền thống tôn giáo của thế giới đang phát triển mạnh ở Ấn Độ, nơi đây sự tôn trọng và hòa hợp giữa các truyền thống là một thực tại từ cổ xưa nhưng lại rất sống động.

Chư Phật đã từ bi hiển thị cho chúng sinh con đường để có thể chứng đạt giải thoát giác ngộ. Thogme Sangpo là một vị Bồ Tát và một hành giả trứ danh, ngài đã từ bi trước tác nên bộ luận này.

“Một khi chúng ta đã cùng tìm hiểu bộ luận với nhau, xin hãy đừng lãng quên và để bụi bám trên kệ sách. Chỉ để kinh sách trong nhà thôi thì không có nhiều lợi ích, bạn phải đọc, tư duy về ý nghĩa, và trở nên thấm nhuần với lời kinh. Bạn phải áp dụng giáo pháp vào trong đời sống hàng ngày. Tôi đã được truyền trao bộ luận này từ đại học giả thành tựu Kunnu Lama Rinpoche, Tenzin Gyaltsen”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại rằng con đường Bồ Tát cần phải được thực hành chứ không chỉ đơn thuần là đối tượng của cầu nguyện; cũng như Đức Phật đã làm, bạn hãy thực hành và tích lũy công đức. Đây là cách thức làm cho đời sống của chúng ta có ý nghĩa. “37 phẩm” truyền dạy về các ứng dụng trong con đường thế gian, sau đó hướng đạo các cách thức để phát triển tâm tỉnh thức giác ngộ. Tiếp đến các phương tiện thiện xảo, trí tuệ và sáu Ba la mật, và cuối cùng là hồi hướng, kết thúc 37 phẩm thực hành.

Ngày 26 Tháng 3 năm 2013 – Quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu Trường thọ tại Ravangla và giảng pháp về đạo đức thế tục tại thủ phủ Gangtok.

Đức Đạt Lai Lạt Ma Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi bộ đến khán đài giảng Pháp phía trước tôn tượng Tathagata Tsal tại Ravangla, hàng ngàn thính chúng có cơ hội được gần và thấy rõ ngài hơn.

Trước khi truyền trao quán đỉnh Bạch Độ Phật mẫu Trường thọ Tara, đức Đạt lai Lạt Ma đã khái lược lại cuộc đời của Đức Phật. Hơn 2500 năm trước, đức Phật đã đản sinh trong một gia đình hoàng gia, ngài đã xả ly, tìm cầu con đường tâm linh, thành đạo và hóa độ chúng sinh. Trong một câu kệ tri ân tới giáo pháp của Đức Phật, Bồ tát Long Thọ đã tán thán: “Con xin đỉnh lễ lên đức Thế tôn, ngài đã truyền trao giáo pháp để tận trừ tà kiến lầm sai cho chúng sinh.” Lời tán thán đó cho thấy tâm từ bi nơi Đức Phật đã thúc đẩy tâm nguyện giải thoát tất thảy chúng sinh khỏi khổ đau. Nương nơi Bồ đề tâm tỉnh giác, ngài đã thành tựu giác ngộ, và khởi phát tâm nguyện cứu độ chúng sinh. Ngài đã dạy cần phải xả ly những gì và thực hành những gì để chúng đệ tử có thể chứng đạt giác ngộ như ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng chỉ viếng thăm chùa, tự viện và tán tụng cầu nguyện không tận trừ được bóng tối của vô minh đang che mờ chúng ta, chỉ có trí tuệ mới là đối trị cho quan kiến lầm sai nơi mỗi người.

Bát Nhã Tâm Kinh dạy rằng ngũ uẩn không có tự tính cố hữu, sắc chính là không, không chính là sắc, điều đó không có nghĩa là không có sắc tướng mà sắc tướng tồn tại phụ thuộc vào các duyên bên ngoài. Khi chúng ta thấy một thứ gì hấp dẫn, chúng ta khuyếch đại những phẩm chất của nó. Nhà tâm lý học người Mỹ Aaron Beck đã chia sẻ với ngài rằng, 90% phản ứng của chúng ta trong những trường hợp như trên là do phóng chiếu của chính tâm ta. Quan điểm này phù hợp với luận giải của đức Long Thọ. Kết luận trên của những nhà khoa học không dựa trên niềm tin, mà dựa trên các thí nghiệm và suy luận.

Một trái tim nồng ấm sẽ mang lại lợi ích cho tất thảy mọi người. Nếu, thay vào đó, bạn lừa dối, chèn ép và lợi dụng người khác, bạn sẽ không hạnh phúc, bạn sẽ không có bình an nội tâm. Vì vậy tốt hơn hết là hãy chia sẻ một trái tim nồng ấm. Không làm tổn hại chúng sinh, năng làm những việc lành, tịnh hóa các nghiệp chướng, đó là con đường dẫn tới Phật quả.

Trong đại lễ quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu Trường thọ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hướng đạo cho toàn thể thính chúng một nghi thức toát yếu khai phát Bồ đề tâm tỉnh thức, hạnh nguyện Bồ tát. Ngài dạy rằng ngài luôn phát hạnh nguyện Bồ tát mỗi ngày, bắt đầu với nguyện lực sống mỗi ngày nương theo giáo pháp của Đức Phật.

Về quán đỉnh Bạch độ Phật mẫu mà ngài đang truyền trao, ngài dạy rằng:

“Giáo pháp này xuất phát từ truyền thừa quan kiến bí mật của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ V. Tôi đã thụ nhận được những quán đỉnh và khẩu truyền và đã nhập thất nghiêm mật các giáo pháp này, tôi truyền trao giáo pháp này tại nơi đây bởi vì vương quốc Sikkim có nhân duyên với giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ V”.

Tiếp theo ngay sau buổi lễ quán đỉnh là lễ cúng dường lên Đức Đạt Lai Lạt Ma, thỉnh cầu ngài trường thọ.

Sau đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tới thủ phủ Gangtok bằng đường bộ. Tất cả dọc theo tuyến đường, ở các thị trấn và các làng mạc, hàng ngàn người đứng xếp hàng dọc hai bên đường, cầm khăn chúc phúc và hoa, đốt hương trầm để cung đón Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tại Kendra Manan thủ phủ Gangtok, ngài đã giảng pháp cho khoảng 1000 sinh viên.

“Trước hết, tôi xin lỗi vì đã đến trễ gần một giờ”, Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu, “bởi vì thời tiết bất ổn tại Ravangla nên chúng tôi quyết định đi bộ thay vì máy bay trực thăng, do đó thời gian lâu hơn. Tuy nhiên, tôi được trao cơ hội chiêm ngưỡng các ngôi làng, người dân, các vườn chè, những khu rừng và các vườn hoa lan tuyệt đẹp của các bạn. Đây là một khu vực rất xanh tươi trù phú, các bạn rất có phước duyên được sinh sống nơi đây.

“Tôi vô cùng hoan hỷ được gặp gỡ quý thiện hữu tri thức trẻ tuổi ngày hôm nay. Thời gian luôn vận động không ngừng nghỉ, không có gì làm dừng lại được. Thế kỷ hai mươi đã trôi qua và cùng với đó là rất nhiều người trong thế hệ của chúng tôi. Đó có lẽ là thế kỷ quan trọng nhất trong lịch sử về sự thay đổi và phát triển công nghệ, nhưng cũng là một kỷ nguyên của bạo lực khủng khiếp nhất. Nhiều người ước tính có 200 triệu người đã chết, là kết quả của bạo lực trong thế kỷ XX. Đây là lý do tại sao điều quan trọng là hãy tận dụng các cơ hội để làm cho thế kỷ XXI hòa bình hơn”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ ra rằng, ở mức độ toàn cầu, dân số đang ngày càng tăng, nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt. Có một khoảng cách lớn giữa người giàu và người nghèo, giữa các nước khu vực Bắc và Nam. Ngay cả khi sự phát triển đi đầu ở một số nơi trên thế giới, thì ở nhiều nơi khác nạn đói vẫn xảy ra. Ngài dạy rằng chúng ta cũng cần đồng thời phải nâng cao mức sống của nhiều người. Ngay bây giờ chúng ta đang có một cơ hội để có một hướng đi mới, nếu nỗ lực, chúng ta có thể chuyển hóa những sai lầm trong quá khứ của mình.

“Các bạn, những ai chưa đến 30 tuổi thật sự thuộc về thế kỷ 21. Tương lai nằm trong tay các bạn. Thế kỷ này tràn đầy sự an lạc hay sợ hãi và phá hủy đều hoàn toàn phụ thuộc vào các bạn”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma dạy rằng, ngài luôn coi bản thân chỉ là một trong 7 tỉ con người, là những động vật xã hội, phụ thuộc vào phần còn lại của cộng đồng. Là con người, chúng ta có một trí tuệ tuyệt hảo, ta nên sử dụng nó để thu hẹp khoảng cách giữa bề ngoài và hiện thực. Thế hệ trẻ ngày hôm nay là niềm hy vọng của chúng tôi cho tương lai, trong khi thế hệ cũ, thế hệ của ngài bây giờ có  trách nhiệm phải nói với các bạn trẻ về những sai lầm mà họ đã làm trong quá khứ.

“Là động vật xã hội, nhân tố trọng yếu để có một đời sống an lạc là tình bằng hữu, sự tin tưởng và tâm thức rộng mở. Tất cả chúng ta đều như nhau, đều là thành viên của cùng một gia đình nhân loại. Niềm tin tưởng là nền tảng của tình bằng hữu và chúng ta sẽ có được, nếu như, bên cạnh những kiến thức có được từ giáo dục phổ thông, ta phát triển một trái tim nồng ấm. Điều này đưa đến sự tự tin và sức mạnh nội tâm, thông qua niềm tin và tình bằng hữu sẽ dẫn đến sự hợp tác với những người khác. Nhưng nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.

“Nhiều nhà khoa học nổi tiếng đang bắt đầu thừa nhận rằng một trái tim nồng ấm rất có ích cho sức khỏe thể chất của chúng ta bởi vì nó mang lại bình an nội tâm. Họ có bằng chứng cho thấy một tâm thức lành mạnh là  yếu tố quan trọng giúp duy trì một cơ thể khỏe mạnh”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc lại rằng ngài chia sẻ với tư cách như một con người như bao người khác. Sự khác biệt duy nhất giữa ngài và các sinh viên đang lắng nghe là họ còn trẻ và ngài đã ở tuổi 78. Ngài nhận thấy khi  cho rằng mình là người Tây Tạng, là một Phật tử, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, một sự phân biệt thứ yếu, nó tạo ra khoảng cách với nhiều người và tạo ra các rào cản để tiến bộ.

Người Tạng và người Sikkim cùng chia sẻ truyền thống tâm linh chung và tri thức Tây Tạng khởi nguồn từ truyền thống Nalanda, nơi mà nghiên cứu và phân tích luôn được coi trọng.

“Đừng nghĩ Phật giáo chỉ là những lời cầu nguyện, gõ trống, thổi tù và hay treo cờ cầu nguyện. Tất cả các nghi thức đó đều có vai trò của mình, nhưng không có bằng chứng nào về các bậc thầy Nalanda từng tham gia các nghi thức như vậy. Các ngài tu học và áp dụng những điều đã được học vào trong sự thực hành.”

Một phụ nữ trẻ đã đặt câu hỏi liệu nghiệp tiêu cực có thể được thay đổi, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng đó là một câu hỏi hay, nhưng tự hỏi liệu “tiếng Anh chưa thuần thục” của ngài có đủ trả lời. Ngài dạy rằng:

“Hãy tưởng tượng một buổi sáng bạn mất bình tĩnh và nói những lời nặng nề với một ai đó và làm tổn thương họ. Điều này tạo ra nghiệp xấu. Nhưng nếu vào buổi chiều, bạn gặp lại người đó, bạn xin lỗi và kết bạn trở lại thì nó giúp thanh lọc các nghiệp xấu”.

Một học sinh khác hỏi: “Nhiều người coi ngài là một đấng thượng đế, như vậy có đúng không?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời đơn giản: “Một số người coi tôi là “Thượng đế sống”, có người khác lại coi là “quỷ”- cả hai đều là vô nghĩa. Tôi coi bản thân là một con người bình thường”.

Với câu hỏi làm thế nào để điều phục lòng tham, Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên hãy phân tích giá trị của tiền. Hãy tự hỏi liệu nó thực sự mang lại hạnh phúc. Hãy hỏi xem những người sống trong cảnh xa xỉ liệu thực sự hạnh phúc hơn. Ngài nhớ lại rằng trước đây ngài đã chia sẻ tại Gangtok về giới hạn của giá trị vật chất, trong khi giá trị của sự phát triển tinh thần là vô hạn.

Cuối cùng, một sinh viên đặt câu hỏi liệu sự giận dữ có bao giờ mang lại bất kỳ lợi ích nào không. Ngài đã dạy rằng, nó phụ thuộc vào lợi ích nào ở đó. Nếu có một thái độ hay thực hiện một hành động gay gắt để bảo vệ hay bênh vực lợi ích của người khác, thì đó cũng có thể là một lý do chính đáng. Nhưng, ngài dạy rằng, điều này cho thấy sự cần thiết phải tìm hiểu và học hỏi để đối trị được những cảm xúc của chúng ta. Ngài khuyên người đặt câu hỏi nên tìm hiểu bộ luận “Nhập Bồ Tát hạnh” của đạo sư Shantideva, ở đó luận giải rõ về chủ đề này. Ngài cho biết ngài đã thụ nhận sự luận giải về bộ luận vào năm 1967, đã tụng đọc nhiều lần và đã truyền dạy khoỏang 30 đến 40 lần kể từ đó. Ngài cho rằng chương 6 & 8 có những lời dạy đặc biệt hiệu quả, bộ luận có sẵn bản dịch tiếng Tây Tạng và tiếng Anh. Ngài dạy rằng: “Bộ luận đó không đắt tiền; hãy mua và đọc”.

Đức Dalai Lama

Phúc Cường trích dịch

Nguồn: Dalailama.com

Theo Đạo Phật Ngày Nay

Trước Quan Âm Tu Viện tổ chức từ thiện cho thiếu nhi
Sau Quan Âm Tu Viện tổ chức từ thiện cho thiếu nhi

Thông tin tác giả

Bài viết bạn có thể thích

Tu Học

Ý nghĩa Pháp khí Mật tông

Pháp khí là những dụng cụ dùng để thực hành các loại pháp sự, để dâng cúng lên chư Phật hoặc các đạo tràng nghiêm trang, hoặc làm dụng cụ

Phật Học 0 Bình luận

Nguồn gốc, ý nghĩa của lễ Phật Đản và những nghi thức nên làm trong ngày linh thiêng

Lễ Phật Đản được tổ chức hàng năm, vào ngày rằm tháng tư, ở các nước theo đạo Phật là để kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời. Trong đại

Tin Tức

Quán đỉnh

Một đặc trưng của Phật Giáo Kim Cương Thừa là nghi thức bắt buộc tham dự việc phát nguyện, phụng sự và thực hành nghi quĩ (tiếng Phạn là sadhana) theo