Thánh Nữ Khandro La
Khi nói về các vị Khandro La, Tăng Ni Phật tử Tây Tạng thường dành một sự quý mến và kính trọng đặc biệt. Đối với Phật tử Tây Tạng nói chung, Khandro La không chỉ là vị có những khả năng đặc biệt, mà chính là vị Hộ Pháp luôn đi theo để bảo vệ và chăm sóc cho các Chư Phật và Chư Bồ tát như người mẹ hiền.
Vị Khandro La hiện thân nữ mà một số Tăng Ni Phật tử Việt Nam đã có dịp đảnh lễ và nhận Pháp tại Dharamsala, Ấn Độ được các Tăng Ni Phật tử này kính trọng gọi theo cách của người Việt là “ Thánh nữ”. Vì thế, để thuận theo danh xưng này, chúng tôi cũng xin dịch danh xưng của Ngài là “Thánh nữ”. Vị Khandro La này đã được xác nhận là thân tái sinh của vị Hộ Pháp tiên tri cho các Đời Đức Dalai Lamas.
Nhiều Tăng Ni và Phật tử khi được đảnh lễ hoặc nhận Pháp của vị Khandro La này đã có sự cảm nhận đặc biệt của tâm từ bi mạnh mẽ, cùng sự thấu hiểu tâm tư người diện kiến nơi Ngài. Có nhiều người nói về việc Ngài đã giảng về tánh không rất xuất sắc và Ngài đã chia sẻ về kinh nghiệm thực hành tu tập áp dụng trong cuộc sống rất tuyệt vời. Tuy thế, ít người biết rằng có những bài giảng Pháp xuất sắc đó Ngài chưa từng được dạy trong kiếp này, mà tất cả bài giảng đó đều tự nhiên sẵn có trong tâm thức mà Ngài nói ra “All from inner out” như một vị Cao tăng từng nói về vị Khandro La này.
Vì thế, chúng tôi xin giới thiệu bài phỏng vấn dưới đây để các Phật tử hiểu thêm về vị Khandro La.
TIỂU SỬ KHANDRO-LA
(Trích từ phỏng vấn với Khandro-La của Thượng tọa Roger Kunsang, tháng 8/2008)
Thượng tọa Roger Kunsang: Ngài có thể cho biết lý do Ngài rời Tây Tạng?
Khandro-La: Tôi đã không hề có ý định đó và tôi cũng không có tiền để trang trải cho chuyến đi. Tôi đã làm theo điềm báo trong các giấc mơ của mình. Một chiếc xe buýt bóp còi báo hiệu sắp rời đi và cho đến tận khi tôi đã lên xe, tôi vẫn không biết là mình đang đi đâu. Tôi nghe người trên xe nói rằng họ đang đi Lhasa và sau đó là tới Shigatse. Vài ngày sau của chuyến đi, tôi được biết rằng họ cũng dự định đến Núi Kailash.
Một ngày nọ, trong khi chúng tôi dừng xe tại Shigatse và tôi đang đi nhiễu quanh Tu viện Tashi Lhunpo thì tôi gặp một ông lão trong trang phục Ấn Độ doti. Người đàn ông hoàn toàn xa lạ này đưa cho tôi 2000 gormo. Ông ta bảo tôi ngồi bên mình và bắt đầu kể cho tôi nhiều câu chuyện kỳ lạ. Ông ta nói với tôi rằng Ấn Độ chỉ ở bên kia ngọn núi này thôi và rằng tôi nên gặp Đức Dalai Lama cùng nhiều vị lama khác. Ông ta cứ thúc giục tôi đi Ấn Độ – và mặc dù lúc đó tôi chẳng cảm thấy lạ lùng gì về hành động đó của ông ta, nhưng sau này khi nhớ lại thì rõ ràng hành động đó thật kỳ lạ.
Đã có rất nhiều khó khăn. Tôi chẳng mang theo mình một nhiệm vụ gì cả và chỉ đang đi theo đoàn người hành hương mà thôi. Tôi không nhớ rõ là chuyến đi đã bao lâu nhưng tôi đã đi 15 vòng quanh Núi Kailash và do bởi các hành động và lời nói bất thường của mình, tin đồn lan ra khắp nơi rằng tôi là một vị Dakini.
(Dakini: Thánh nữ. Núi thiêng Kailash là một địa điểm hành hương quan trọng bậc nhất với người Tây Tạng. Do yếu tố tâm linh thổ nhưỡng địa lý đặc biệt tác động, hàng năm nhiều người hành hương đã bỏ mạng nơi này, nhiều người khác phải bỏ cuộc. Phật tử Tây Tạng nếu ai một lần trong đời đi được 3 vòng quanh núi thiêng này đã được coi là rất thành công).
Mọi người bắt đầu xếp hàng để được nhìn tôi, thậm chí là xin tôi ban phước cho họ. Tôi đã rất mệt mỏi trong vòng vây của đám đông nhưng một vị sư tốt bụng từ một tu viện gần đó đã chăm sóc tôi, cho tôi đồ ăn và thức uống. Vị sư đó thậm chí còn đứng ra sắp xếp, hướng dẫn cho đoàn người tìm đến tôi để xin ban phước… Nhiều người trong số họ bày tỏ mong muốn được cùng đi Ấn Độ với tôi. Một đêm, khá bất ngờ và hoàn toàn không có thảo luận trước, tôi quyết định đi Ấn Độ và một người đàn ông đã hướng dẫn 17 người chúng tôi từ xe buýt dọc theo một con đường mòn đến biên giới. Ông ta không có nhiều kinh nghiệm lắm và do đó chúng tôi phải đi 17 ngày để đến Kathmandu ở Nepal. Đúng ra chỉ cần 7 ngày mà thôi. Nơi chúng tôi đặt chân đến không có một bóng người và do bởi không có đường xá và người dân để hỏi nên cũng không biết được liệu chúng tôi đã ra khỏi Tây Tạng chưa. Chúng tôi phải đi theo các điềm báo trong các giấc mơ của tôi. Khi chúng tôi phân vân về đường đi, các điềm báo nói rằng tôi phải đi theo hướng có xuất hiện một vầng ánh sáng. Có lẽ đây là nhờ ơn gia trì của Đức Dalai Lama hoặc Palden Lhamo.
Thỉnh thoảng chúng tôi phải đi cả ngày trời mà không có thức ăn và nước uống cũng như đôi khi phải đi suốt đêm. Chúng tôi đã không được chuẩn bị cho một hành trình dài đến thế.
Khi đến Nepal, tôi ngã bệnh nặng do bị ngộ độc thực phẩm và không thể tiếp tục cùng các bạn đồng hành của mình tới Ấn Độ. Tôi phải ở lại trại tị nạn ở Kathmandu, nôn ra máu, làm cho nhân viên ở đó nghĩ rằng tôi mang bệnh truyền nhiễm. Tôi được cho ngủ bên ngoài, trên một cánh đồng. Tôi yếu đến mức không thể trở mình. Khi cần thay đổi tư thế, họ dùng các cây gậy dài để đẩy tôi lui hoặc tới do ngại dùng tay đụng vào người tôi. Khi tình trạng của tôi tệ hơn, nhân viên ở trại nghĩ rằng tôi không thể nào qua khỏi và do đó đã hỏi liệu tôi có muốn chuyển lời lại cho gia đình không và yêu cầu tôi cho địa chỉ để liên lạc.
Vì vậy tôi yêu cầu các vị sư từ một tu viện cầu nguyện cho tôi sau khi tôi chết và mang tro cốt tôi tới một đỉnh đồi mà sau này tôi mới biết đó là đồi Nagarjuna linh thiêng, nơi Đức Phật đã giảng Kinh Langru Lungten.
Tôi yêu cầu họ lấy nước tiểu của tôi vào một lọ và đưa nó cho bất cứ ai họ gặp đầu tiên ở lối vào của Tháp chứa tro cốt Boudhanath. (Tháp này ở tại Kathmandu của Đức Phật Ca Diếp là Đức Phật cố xa xưa trước thời Đức Phật Thích Ca, khác với Ngài Ca Diếp là đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Tháp Boudhanath được coi là linh thiêng cổ nhất Thế giới.) Lúc đó tôi đã nửa mê nửa tỉnh nhưng họ đã rất tốt bụng khi vẫn thực hiện yêu cầu này của tôi. Người mang lọ đựng nước tiểu của tôi đã gặp một người đàn ông tại cổng, người mà hóa ra là một thầy thuốc Tây Tạng. Vị này kiểm tra nước tiểu của tôi và chẩn đoán rằng tôi đã bị ngộ độc thịt, kê toa thuốc và thậm chí gởi cho tôi một vài liều thuốc được gia trì (những viên thuốc Mani). Sức khỏe của tôi được cải thiện nhanh chóng và tôi đã có nhiều giấc mơ lành. Khi phục hồi, tôi được gởi đến trại tị nạn Dharamsala cùng với một vài người mới đến.
Tôi đến Dharamsala không lâu sau khi có một cuộc tranh cãi giữa các vị sư đến từ làng của tôi với nhân viên của trại và do đó họ có ác cảm với bất kỳ ai đến từ làng này. Hậu quả là tôi cũng trở thành nạn nhân. Vì tôi còn khá trẻ nên họ hỏi liệu tôi có muốn đi học hay muốn được dạy nghề không. Câu trả lời của tôi khá thẳng thắn và trung thực. Tôi nói rằng tôi không tha thiết gì việc đến trường và cũng chẳng muốn học thứ gì khác cả. Khi còn ở quê nhà tôi luôn có một khao khát mãnh liệt được phục vụ các thiền giả và do đó tôi thường nhặt củi và đưa nước cho các thiền giả ở xung quanh ngôi làng của tôi. Tôi thậm chí cũng không biết rằng Tây Tạng bị người Trung Quốc chiếm đóng và rằng đó là lý do mà người Tây Tạng chúng tôi phải đi tị nạn. Tôi không bị người Trung Quốc tra tấn và tôi cũng không thiếu thốn thực phẩm và quần áo. Ao ước duy nhất của tôi là được gặp Đức Dalai Lama, và do tôi thỉnh thoảng trở nên rất kỳ lạ, tôi đơn giản chỉ muốn biết được từ Ngài xem như vậy là tốt hay xấu. Điều tôi muốn chỉ có vậy thôi, nếu không được thì tôi muốn được trở lại nhà của mình.
Tôi không được diện kiến Đức Dalai Lama vì mọi người cho rằng tôi bị bệnh truyền nhiễm có thể lây sang ngài. Người thì nói là tôi bị điên. Người khác thì cho rằng tôi nên rời trại hoặc nên gởi tôi vào nhà thương điên. Tôi thậm chí còn bị cấm gặp người khác trong vài tháng. Thay vào đó, tôi đi nhiễu quanh tu viện của Đức Dalai Lama mỗi buổi sáng. Một ngày nọ tôi nghe nói rằng Ngài đang quay về tu viện và tôi liền nấp bên đường để đảnh lễ Ngài. Khi xe của Ngài đi qua Tu viện Namgyal, tôi thấy một vầng sáng rực rỡ ở gương trước của xe và trong xe, tôi thấy Ngài với nhiều cánh tay mọc trên vai! Đó là lần đầu tiên tôi được thấy Đức Dalai Lama và khi đó tôi đã nhảy về phía xe Ngài để quỳ lạy và rồi ngã xuống bất tỉnh, hầu như nằm dưới bánh xe.
Tôi được khiêng trở lại trại bởi một người đàn ông ở cùng làng và lại một lần nữa bị mọi người trách cứ. Nhưng tôi thấy việc gặp Ngài đã đem đến một sự thay đổi lớn trong tôi và tôi không bao giờ thấy giận nhân viên của trại nữa. Tôi nghĩ ‘Ồ, họ phải chăm sóc cho quá nhiều người và dĩ nhiên thỉnh thoảng họ cũng phải cáu gắt thôi.’
Mặc cho đã liên tục yêu cầu, tôi vẫn không được diện kiến Ngài. Tại một buổi giảng Pháp của Ngài, tôi đã xoay xở để có được một chỗ ngồi. Khi Ngài đến, được hộ tống bởi các nhân viên an ninh thì tôi bị hộ pháp nhập và do đó các cận vệ mang tôi ra khỏi hội trường, bảo tôi ngồi ở chân cầu thang. Tôi cảm thấy rất buồn khi nghĩ đến các nghiệp không lành mà chắc là tôi đã tạo ra trong quá khứ khiến cho tôi bây giờ không thể gặp được Ngài.
Buổi giảng Pháp của Ngài bắt đầu bằng việc tụng Kinh Bát Nhã. Tôi có thể nghe được Đức Dalai Lama tụng và khi Ngài tụng “không mắt, không mũi”… tôi bắt đầu có một cảm giác rất lạ. Khi Ngài tụng “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, tôi cảm thấy nhiều vầng sáng chiếu tỏa lên người, từ đỉnh đầu đi xuống toàn thân. Tôi thấy như người được nâng lên và tràn đầy hỉ lạc.
Thời gian đi qua, tôi biết được một vài thiền giả và liên hệ được với một vài vị lama như Kirti Tsenshab Rinpoche và Khalkha Jetsun Dampa. Tôi nhận được nước được các vị này ban phép và họ cũng tìm đủ mọi phương cách để giúp tôi gặp Đức Dalai Lama. Nhưng chẳng có tiến triển gì và cuối cùng tôi quyết định trở về Tây Tạng. Tôi vô cùng buồn vì không thể thực hiện được một vài việc mà ông lão ở Shigatse đã yêu cầu. Có một vài việc quan trọng mà tôi nên làm, ví dụ như cầu trường thọ và vài việc bí mật khác, và thời gian để làm các việc này đang sắp hết.
Tôi báo cho Kirti Tsenshab Rinpoche quyết định của mình nhưng vị này nhất quyết cho rằng tôi không nên quay về. Lama nói rằng ngài thấy ở nơi tôi điều gì đó quan trọng hơn chỉ là một nhà tiên tri, ngài có thể thấy cái gì đó đặc biệt trong tôi. Lama nói rằng tôi sẽ giúp ích được rất nhiều cho Đức Dalai Lama và khuyên tôi ở lại Dharamsala. ‘Tôi sẽ làm cầu nối cho bạn và Đức Dalai Lama.’ Khi nghe Lama nói vậy, tôi tự hỏi tại sao một học giả vĩ đại, một lama vĩ đại lại nói những lời này về mình. Không lâu sau đó và thật bất ngờ, tôi được diện kiến Đức Dalai Lama cùng với một vài người mới đến.
Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Tôi thấy Đức Dalai Lama tiến về phía chúng tôi và tôi thấy Ngài với hào quang tỏa sáng và nhiều cánh tay, giống hệt lần thấy ngài trước đây. Ngay khi tôi đứng lên để đảnh lễ Ngài thì lại một lần nữa tôi bị hộ pháp nhập và bị các cận vệ mang đi. Có lẽ tôi đã bị va đập bởi vì sau khi tỉnh lại tôi thấy các vết bầm tím trên người.
Nhưng sau khi gặp những người khác, Ngài đã yêu cầu gặp nhà nữ tiên tri và tôi được đưa đến gặp Ngài. Ngay khi đến gần Ngài, tôi quỳ xuống chân Ngài và lại bất tỉnh. Khi tôi tỉnh lại, Đức Dalai Lama hỏi tôi về quê quán và nhiều câu hỏi khác nhưng tôi không thể thốt nên lời. Không có từ nào được thốt ra – tôi quá mừng nên không thể nói được gì. Sau đó tôi đã có thể kể cho Ngài tất cả những gì mà ông lão ở Shigatse đã nói với tôi và Ngài đã lắng nghe mọi thứ về tôi và các vấn đề của tôi. Tôi được xác nhận là Nhà tiên tri của Hộ pháp và Đức Dalai Lama yêu cầu tôi không quay lại Tây Tạng. Ngài ban cho tôi các lễ quán đảnh khác nhau cùng những hướng dẫn và tôi bắt đầu nhập thất tu hành theo lời khuyên của Ngài.
Văn phòng của Ngài cấp cho tôi một chỗ ở trong Tu viện Namgyal. Đó cũng là nơi mà hiện tại tôi vẫn đang ở. Cũng trong thời gian này, có một vị lama bị ám sát bởi một nhóm các tín đồ thờ thần Shugden và có tin đồn rằng tôi cũng sẽ bị ám sát. Các tăng sĩ tại Tu viện Namgyal đã rất lo lắng về sự an toàn của tôi.
Đó là lý do mà chúng tôi trở nên rất thân thiết với nhau. Thực ra tôi đã cố từ chối sự bảo vệ của họ. Tôi bảo họ rằng nếu số mệnh của tôi là phải bị giết thì không gì có thể ngăn cản được điều đó nhưng nếu nghiệp của tôi là không chết thì các tín đồ Shugden không thể làm gì tôi được. Các tăng sĩ không nghe tôi và không ngừng chăm sóc, trông chừng cho tôi.
Khi tôi bị bệnh, Đức Dalai Lama đã liên lạc với Kyabje Trulshik Rinpoche và tôi được sang Pháp chữa bệnh. Nhờ đó mà tôi biết được Lama Zopa Rinpoche. Thực ra, nhờ sức khỏe không tốt mà tôi gặp được rất nhiều người!
Trong suốt thời gian nhập thất tu hành đã có một vài điềm lành và tiến bộ xảy đến nhưng tôi muốn nói rằng tất cả những việc này chỉ là ảo giác mà thôi. Mọi việc tốt xảy đến đều nhờ vào sự gia trì của Đức Dalai Lama. Cá nhân tôi cũng không tốt đẹp hơn gì chúng sinh bình dị nhất.
Khoảng hai năm trước (tức là vào năm 2006), Đức Dalai Lama khuyên tôi khi nào có cơ hội thì nên giảng Pháp hoặc làm mọi thứ có thể trong khả năng của mình để giúp người khác. Nhưng tôi biết rằng tôi chẳng có gì để cho người khác cả. Thành thật mà nói, tôi có niềm tin mãnh liệt rằng điều cốt yếu nhất của cuộc sống là giác ngộ được Tâm Bồ Đề và Tính Không. Mặc dù khó khăn nhưng ước nguyện chính của tôi là có được niềm tin không lay chuyển về hai điều này trước khi chết. Nếu tôi không thể giúp người khác có được hai điều này, cuộc gặp của chúng ta chỉ là lãng phí thời gian mà thôi. Ngoài ra, tôi là người nghèo nhất từ trong ra ngoài. Mặt tốt nhất của tôi chính là tôi đã gặp Chính Pháp, gặp được các phương pháp tu hành tốt nhất và các vị lama vĩ đại nhất.
Thượng tọa Roger: Khi nào Ngài đầu tiên cảm nhận rằng Ngài là một vị Dakini?
Khandro-La: Tôi luôn nghĩ rằng tôi không phải là một vị Dakini. Tôi không biết mình là ai. Một vài lama nói rằng tôi là Khandro Yeshe Tsogyal ( xem chú thích bên dưới trang này), người khác thì nói rằng tôi là Vajrayogini ( Kim Cang Du Già Thánh Nữ), và cũng có người cho rằng tôi là Tara ( Đức Phật Mẫu). Có lẽ đó chỉ là suy nghĩ của họ thôi. Tôi thì lại cho rằng tôi chẳng có gì đặc biệt cả.
Khi tôi còn trẻ, người ta nói rằng tôi bị điên. Lại có người nói rằng tôi là một vị Dakini. Tôi không biết nữa. Tôi chắc chắn là tôi có những nghiệp lực rất mạnh từ quá khứ vì tôi cảm thấy mình vô cùng yêu mến đối với Đức Dalai Lama và các vị lama cao cấp khác ở Tây Tạng và bên ngoài Tây Tạng. Một vài vị lama ở Tây Tạng mà tôi vốn không biết lại gởi đến tôi tình yêu thương, sự kính ngưỡng, lời cầu chúc và thường là cúng dường và ngợi ca. Một lý do khác là thỉnh thoảng ngôn từ về Tính Không đột nhiên tự thốt ra từ miệng tôi – những điều tôi chưa bao giờ nghe qua và học qua trước đây – nhưng sau đó tôi lại chẳng nhớ mình đã nói gì.
Chú thích về Khandro Yeshe Tsoygal: là công chúa xứ Kharchen, Tây Tạng. Yeshe Tsoygal là một dakini và là hóa thân của Phật Mẫu Lô Xá Na (Lochana), phối ngẫu của Đức Phật Ratnasambhava (Phật Bảo Sanh) cũng là VajraYogini(Kim Cương Du Già Thánh Nữ xuất hiện trong thân tướng của một người nữ. Bà đã phụng sự Đức Guru Rinpoche ( Đức Liên Hoa Sinh) khi Ngài ở Tây Tạng và sau đó thực hành kiên trì khác thường, cuối cùng thành tựu ngang bằng với Thầy mình. Lòng bi của Bà vô song và ân phước của Bà bất tận.
Yeshe Tsoygal đã viết lại giáo huấn khẩu truyền của Đại sư Liên Hoa Sinh bằng một mã bí mật gọi là “Chữ viết Dakini” và chôn dấu như một kho tàng terma(phục kinh) quý báu để các vị terton khai quật vào nhiều thế kỷ sau. Chính Đức Guru Rinpoche đã tiên tri nơi chốn, danh tánh, thời gian của những vị terton đến khai mật tạng. Những giáo huấn mà các vị terton tiếp nhận trong thực tế hay trong linh kiến đều thích hợp cho những người sống trong thời các Ngài và trong những thế hệ sau này. Hầu hết mỗi chương trong quyển sách này đều nhắc nhở là những giáo huấn này được ban vì lợi ích cho những hành giả trong thế hệ tương lai nên có lời ghi rằng: “Nguyện cho những người đã được định trước và xứng đáng trong tương lai gặp được giáo huấn này!”
Thông tin tác giả
Bài viết bạn có thể thích
Bảy Đóa Sen Hồng trên kênh Nhiêu Lộc: Nhiều duyên lành hội tụ
Hoa sen, ngoài những ý nghĩa thắm đượm tinh thần Phật giáo và là hình ảnh gắn liền với sự kiện đản sanh của Đức Phật, nó còn là một
Hàng vạn người dự lễ cầu an của Pháp Vương Drukpa
Ngồi ròng rã một ngày nhưng các Phật tử đều hoan hỷ khi được tận mắt, tận tai nghe Pháp Vương truyền giảng Phật pháp. Ngày 12/4, hàng vạn Phật
Lễ Vu lan của Phật tử VN tại CH Séc
QATV.VN – Đại lễ Vu lan PL.2559 diễn ra ngày 6-9 vừa qua tại Hội trường Đông Đô, Trung tâm TM Sapa (Praha, CH Séc) là buổi lễ thực sự ấn